Mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) đang là mối quan ngại ngày càng tăng tại một số quốc gia Nam Á, Đông Á và Trung Á.
Sự
mất cân bằng này đang khiến toàn châu Á sẽ “thiếu hụt” tới 117 triệu
phụ nữ và trẻ em gái. Để đối phó với những hệ lụy của sự mất cân bằng
này, Việt Nam đã có sáng kiến tổ chức Hội thảo quốc tế với chủ đề “Mất
cân bằng giới tính khi sinh: Giải quyết vấn đề và định hướng cho tương
lai”. Hội thảo do Bộ Y tế phối hợp với Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA)
thực hiện với sự tham gia của 11 nước diễn ra trong hai ngày 5 – 6/10
tại Hà Nội.
Ảnh hưởng từ việc “trọng nam, khinh nữ”
Theo
các báo cáo của các đại biểu đến từ 11 quốc gia, tỉ số giới tính khi
sinh (SRB) chủ yếu ảnh hưởng đến các nước châu Á, nơi có nhiều quốc gia
mà người dân vẫn còn tư tưởng “trọng nam, khinh nữ”.
Các
nước có SRB tăng cao ở khu vực châu Á vẫn thường xuyên được nói đến từ
những năm 1980 đến nay là Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ. Gần đây nhất là
Việt Nam với mức độ gia tăng nhanh chóng và diễn biến phức tạp. Hiện
nay, ngày càng nhiều nước đang chứng kiến tình trạng MCBGTKS như:
Armenia, Azerbaijan, Georgia, Albania, Nepal...
Một
trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến SRB tăng cao là tâm lý ưa thích
con trai đã có từ lâu đời tại nhiều nước châu Á. Ở những quốc gia này,
người dân thường có tâm lý “trọng nam, khinh nữ”: Chỉ có người con trai
là được thừa hưởng tài sản, là người phụng dưỡng cha mẹ khi về già, lo
việc ma chay cúng giỗ, nối dõi tông đường... Con gái không được tham gia
vào những việc trọng đại của gia đình, dòng họ, lấy chồng thì theo
chồng và ở bên nhà chồng... Những truyền thống “thâm căn cố đế” này tạo
áp lực lớn buộc người phụ nữ phải “cố” đẻ cho được con trai. Do các
chính sách giảm sinh và kiểm soát sinh đẻ khiến nhiều người càng mong
muốn có quy mô gia đình nhỏ nhưng phải có con trai. Tiếp đó, sự phát
triển của siêu âm và các công nghệ giúp chẩn đoán giới tính giúp họ có
cơ hội tiếp cận dễ dàng nhằm thỏa mãn lòng mong muốn có con trai của
mình.
Nếu không chung tay hành động thì tình trạng mất cân bằng giới tính sẽ ảnh hưởng rất nặng nề trong tương lai. Ảnh: Chí Cường
|
Bà
Nobuko Horibe, Giám đốc Văn phòng khu vực châu Á và Thái Bình Dương của
UNFPA cho hay: Phụ nữ phải chịu áp lực nặng nề về việc phải sinh con
trai, phải gánh chịu các hậu quả nếu họ sinh con gái không như ý muốn-
Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến SKSS, sức khỏe tình dục, thậm chí cả
tính mạng của họ.
Áp lực… không lấy được vợ
Sự
MCBGTKS đã tạo ra những hệ lụy của sự thiếu hụt các cô dâu hiện nay ở
Trung Quốc, Hàn Quốc. Đến nay, mới chỉ có Hàn Quốc thành công trong việc
đưa SRB về mức cân bằng tự nhiên 106 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ sinh
gái. Các nước Trung Quốc, Ấn Độ dù có nhiều biện pháp rất quyết liệt
song SRB vẫn đang ở mức cao.
Theo
kịch bản dân số khả quan nhất, nếu SRB trở về mức bình thường trong
vòng 10 năm tới thì nam giới của Trung Quốc và Ấn Độ cũng vẫn phải đối
mặt với “sức ép kết hôn” một cách nghiêm trọng trong vài thập kỷ vì rất
nhiều người trong số họ sẽ không thể tìm được bạn đời do thiếu phụ nữ
trong độ tuổi kết hôn. Bà Monica Das Gupta – chuyên gia nhân khẩu học
(nhóm nghiên cứu phát triển, Ngân hàng Thế giới) cho biết, ở Trung Quốc,
tỉ lệ nam giới độc thân không có khả năng lấy vợ, đặc biệt nam giới ở
khu vực nông thôn cao. Lý giải nguyên nhân này, bà Monica cho hay, nhiều
phụ nữ ở nông thôn đã di cư đến thành thị để tìm kiếm công ăn việc làm,
nâng cao trình độ. Nam giới nông thôn với trách nhiệm chăm sóc cha mẹ
thường phải ở lại quê nhà, do đó cơ hội tìm kiếm bạn đời càng ít hơn.
Mất
cân bằng giới tính khi sinh sẽ tác động tới cấu trúc giới tính của dân
số trong tương lai, dẫn đến tình trạng dư thừa nam giới khi đến độ tuổi
kết hôn. Thiếu phụ nữ sẽ làm tăng thêm áp lực buộc họ phải kết hôn sớm
hơn. Nhu cầu mua bán tình dục cũng có thể ngày càng tăng và các mạng
lưới buôn bán phụ nữ có nguy cơ sẽ mở rộng hơn do sự mất cân bằng này.
Chung hành động
Tại
Hội thảo, đại diện các Chính phủ, phái đoàn của 11 nước tham dự đã cùng
nhau chia sẻ kinh nghiệm và đưa ra các khuyến nghị, giải pháp nhằm cùng
nhau ngăn ngừa, giảm thiểu sự MCBGTKS.
Chia
sẻ bài học thành công, PGS.TS Heeran Chun – ĐH Jungwon University (Hàn
Quốc) cho biết: Hàn Quốc đã đẩy mạnh chính sách như Luật cấm lựa chọn
giới tính thai nhi, Luật Gia đình, Luật Bình đẳng giới quy định con gái
được thừa kế như con trai, Chính phủ mở rộng các lĩnh vực nghề nghiệp
với nữ, Luật cho phép phụ nữ quyền và trách nhiệm với gia đình cha mẹ đẻ
của mình. Đẩy mạnh chiến dịch “Hãy yêu con gái của bạn” qua các phương
tiện thông tin đại chúng.
Một
số nước khác như Ấn Độ sửa một số luật, cho phép con gái có thể thừa kế
tài sản gia đình ngang bằng với con trai, yêu cầu cả con trai và con
gái phải có trách nhiệm chăm sóc cha mẹ tương ứng với tỷ lệ phần tài sản
được thừa kế. Ở Trung Quốc, đã tiến hành một chiến dịch lớn để khẳng
định giá trị của nữ giới với tên gọi “Chăm sóc trẻ em gái” - đưa thông
điệp tích cực về nữ giới, có những ưu đãi cho các bậc cha mẹ sinh con
một bề, hỗ trợ các khoản tiền nhà và lương hưu cho các ông bố bà mẹ ở
nông thôn sinh con một bề và khuyến khích các cuộc hôn nhân với chế độ
mẫu hệ.
Tại
Việt Nam, nhằm ngăn ngừa giảm thiểu tình trạng này, Pháp lệnh Dân số
2003, Luật Bình đẳng giới, dự thảo Chiến lược DS-SKSS giai đoạn 2011 –
2020, một số Nghị định của Chính phủ đã có những quy định cụ thể nghiêm
cấm hành vi lựa chọn, chẩn đoán giới tính thai nhi. TS. Dương Quốc Trọng
- Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ (Bộ Y tế) cho biết, trước tình hình
SRB gia tăng, năm 2009, Tổng cục đã triển khai thí điểm mô hình ngăn
ngừa và giảm thiểu MCBGTKS ở 10 tỉnh, thành phố, mở rộng 18 tỉnh, thành
vào năm 2009 và đến năm 2011 triển khai ở 43 tỉnh, thành phố trên cả
nước...
Để
giảm tình trạng MCBGTKS, xóa bỏ hệ lụy của gốc rễ “thâm căn cố đế”, đại
diện các nước cũng thống nhất rằng, cần thiết phải có thêm nhiều nỗ lực
hơn nữa từ phía Chính phủ và các tổ chức xã hội dân sự, bao gồm cả
những nỗ lực nhằm giải quyết phân biệt đối xử đối với phụ nữ và trẻ em
gái vốn đã ăn sâu bám rễ và là lý do chính cho việc lựa chọn giới tính
trước khi sinh. Đại diện các nước cũng cho rằng, thúc đẩy bình đẳng giới
và trao thêm quyền năng cho phụ nữ và trẻ em gái sẽ là giải pháp then
chốt giúp điều chỉnh MCBGTKS.
Ông Nguyễn Thiện Nhân
(Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam)
Nhân
dịp này, chúng tôi mong tiếp tục nhận được sự hỗ trợ của các nước, tổ
chức quốc tế cả về kinh nghiệm, cũng như nguồn lực giúp Việt Nam giảm
thiểu tình trạng MCBGTKS. Tôi cũng kêu gọi các nước trong hợp tác Nam –
Nam tiếp tục có những hỗ trợ giúp đỡ để cùng nhau giải quyết được vấn đề
khó khăn chung này. Tôi hy vọng với sự đoàn kết, quyết tâm, gắn bó,
chúng ta sẽ thành công”.
TS. Dương Quốc Trọng
(Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ - Bộ Y tế)
Ông Eamonn Murphy
(Quyền Điều phối viên thường trú của LHQ tại VN)
|
Theo Giadinh.net.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét